Gia Thông Đại Vương Lý Phục Man

Bạn vui lòng NHẤN [Xem quà của bạn] để nhận quà miễn phí nhé.

Gia Thông Đại Vương là người làng Cố Sở, sau đổi là An Sở, thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây ngày nay. Đại Vương sống vào khoảng cuối thời nước ta thuộc Lương (540), có công theo giúp Lý Nam Đế, lập được nhiều chiến công hiển hách.

Gia Thông Đại Vương khi còn trẻ tuổi còn có sức phi thường, đã từng trị được voi dữ, lại tinh thông võ nghệ và cưỡi ngựa, bắn cung cũng thật giỏi. Tư cách, đức độ của Đại Vương lại thực hơn người, nên đi đến đâu mọi người cũng mến phục.

Khi ấy dân ta sống dưới ách thống trị của ngoại bang, phải chịu trăm bề điêu đứng. Các anh hùng hào kiệt muốn liên kết với nhau để chống lại, lúc đầu thường phải dấu họ tên để khỏi bị bọn giặc giết hại.

Năm 541, Lý Bí đang làm chức giám quân ở Cửu Đức (vị trí huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh bây giờ) đã liên kết với các hào kiệt phất cờ khởi nghĩa. Đại Vương theo giúp Lý Bí ngay từ lúc bấy giờ, và lập được nhiều công lớn.

Sau khi chiếm Cửu Đức, Lý Bí đem quân ra đánh thành Long Biên. Thứ sử Giao Châu lúc bấy giờ là Tiền Tư phải bỏ chạy về Quảng Châu.

Mùa xuân năm 544, Lý Bí lên ngôi xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, rồi dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội và phong tước hiệu cho các quan.

Sau khi nhận tước hiệu, Đại Vương lại cầm quân ra trấn thủ biên giới ở miền Đỗ Động. Đây là nơi xa xôi, hiểm trở, các băng trộm cướp thường nổi lên cướp bóc, làm cho dân tình điêu đứng. Đại vương thi hành chính sách vừa nghiêm khắc vừa khoan hòa, nên chẳng bao lâu miền ấy đã ổn định. Các kẻ hùng trưởng đều phải nín hơi, bọn trộm cướp phải về thuần phục và dân chúng thì yên vui, chăm lo làm ăn sinh sống.

Quân Lâm Ấp (tức Chiêm Thành) vào cướp quân Nhật Nam, tiến vào tận châu Cửu Đức. Lý Nam Đế triệu hồi Đại Vương về Kinh, giao cho cầm binh chống giặc.

Đại Vương dẫn quân đi, đánh tan quân Lam Ấp. Khi tin thắng trận báo về Kinh đô, Lý Nam Đế bảo các quan: “Thật tre già mới biết đao sắc, đất nước có gian nguy mới biết người tài giỏi. Đỗ Động tướng quân thật là bậc hào kiệt, dẫu danh tướng đời xưa cũng không hơn được, nên ta cần phải trọng thưởng để nêu gương”.

Khi Đại Vương về triều, nhà vua cho đổi họ Ngài thành họ Lý, theo họ nhà vua. Tên của Ngài cũng đổi thành Phục Nam, tức là người đã có công khuất phục được các “rợ” ở miền biên giới.

Nhân có nàng công chúa đến tuổi gả chồng, Lý Nam Đế cho làm lễ thành hôn với Lý Phục Nam, và thăng cho Ngài lên chức Thái úy, đứng đầu các quan võ.

Lý Thái Úy đã chẳng phụ lòng mong mỏi của nhà vua. Khi xử đoán các việc, Ngài luôn luôn theo lẽ công bằng, còn bản thân thì thanh liêm, chính trực. Những kẻ lộng quyền phải vào khuôn phép, người có công được ban thưởng, có ai oán trái thì được minh xét tỏ tường. Trong triều ngoại nội vì thế, ai cũng kính phục, gọi Ngài là Phục Man tướng quân.

Dẫu sao thì chính thể của triều đại Lý Nam Đế cũng mới là chính thể độc lập đầu tiên, vì vậy nhiều thứ hãy còn bỡ ngỡ, chưa vào quy cũ. Vì vậy, những vùng ở xa Kinh đô, nhất là ở nơi biên giới, các hào trưởng, tù trưởng thường hay xưng hùng xưng bá, không chịu phục tùng chính quyền trung ương. Bất đắc dĩ, Lý Nam Đế lại phải phái Lý Thái Úy lên giữ đất Đường Lâm, là vùng nổi tiếng cứng đầu, cứng cổ nhất lúc bấy giờ. Kể từ khi Thái úy đến tri nhậm, vùng đất ấy lại được yên ổn.

Cuối mùa hạ năm 545, nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem đại binh đi đánh Giao Châu. Lý Nam Đế đem ba vạn quân ra chống lại, nhưng vì quân số ít hơn, lại trang bị kém nên đã bị thua ở Châu Diên, rồi ở cửa sông Tô Lịch. Nhà vua phải rút về thành Gia Ninh. Quân Lương đuổi theo vây thành.

Sang đầu năm sau, năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh. Lý Nam Đế chạy vào đất của người Lạo ở Tân Xương. Quân Lương đóng ở cửa sông Gia Ninh.

Đầu tháng 8 năm ấy, sau khi củng cố lưc lượng, Lý Nam Đế định tổ chức một cuộc phản công lớn với hai vạn quân và rất nhiều thuyền bè, đang tập trung ở hồ Điểm Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phú).

Thừa lúc đêm tối, nước sông Cái dâng lên cao, đổ tràn vào hồ trong mùa mưa bão, Trần Bá Tiên cho thuyền theo dòng nước vào đánh quân của Lý Nam Đế.

Do bị bất ngờ, quân Lý Nam Đế bị tan vỡ, phải rút sâu vào động Khuất Lạo. Tại đây, Lý Nam Đế lại tiếp tục củng cố lực lượng, rồi giao toàn bộ thủy binh cho Triệu Quang Phục tiến đánh thủy binh của Trần Bá Tiên.

Triệu Quang Phục là một tướng trẻ tài năng và có nhiều mưu lược, đã chỉ huy thủy binh là những người Việt thông thạo sông nước, đánh nhau với Trần Bá Tiên nhiều trận, chưa phân thắng bại. Nhận thấy quân địch đông hơn, Triệu Quang Phục rút về phòng ngự ở đầm Dạ Trạch, rồi sau đó phản công, giết tướng giặc Dương Sằn và xây dựng lại nền độc lập nước nhà.

Còn đây lại nói về Lý Nam Đế và Lý Thái Úy. Sau khi giao thủy binh cho Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế ở lại động Khuất Lạo, với quân sĩ phần lớn là người Di, Lạo. Và Lý Thái Úy, từ khi quân Lương sang xâm lấn, đã mang quân từ Đường Lâm về Kinh để cùng nhà vua chống giặc. Sau mấy trận thất bại, Thái úy cũng về với nhà vua ở động Khuất Lạo và nắm giữ binh quyền phần lớn là người Di, Lạo đó.

Sang năm sau, năm 547, Lý Nam Đế mất, do tuổi cao sức yếu, lại ở miền lam chướng, và cả nỗi lo phiền. Thái úy một mặt lo mai táng cho Lý Nam Đế, mặt khác cũng sai quân sĩ phòng ngự ở những nơi hiểm yếu. Tuy nhiên, sự phản trắc lại xảy ra ở một hướng khác.

Ấy là những người lính Di, Lạo mà từ trước đến bấy giờ, hầu như họ chỉ là thần dân của một giang sơn riêng vậy. Khi Lý Nam Đế có đông đảo quân lính người Việt thì theo họ, còn bây giờ, quân lính người Việt đã rút đi (theo Triệu Quang Phục) và Lý Nam Đế cũng đã mất, thì họ không chịu theo nữa.

Lý Thái Úy tuy hiểu rất rõ tình thế này, nhưng một mặt phải chịu mệnh vua, không thể từ chối mà không ở lại, mặt khác, nếu có lo đối phó lại họ thì cũng không đủ lực lượng, vì số người Việt ở lại còn rất ít. Vì thế, Ngài chẳng có kế sách gì hơn là phải chịu nương theo số phận đưa đẩy, để chờ cơ hội khác.

Vào một đêm, Ngài đã đi ngủ, bỗng thấy xung quanh nhà lửa sáng rực trời, quân Di Lạo lũ lượt kéo đến vây bọc. Ngài cùng các gia tướng đánh phá vòng vây chạy ra. Quân Di Lạo đuổi theo, rồi vốn quen thung thổ, đã chặn hết các lối. Lý Thái Úy cùng gia tướng chiến đấu cho đến lúc sức cùng lực kiệt. Và khi bị thương, biết chạy cũng vô ích, Ngài bèn trở ngược kiếm, đâm thẳng vào ngực mình.

Quân Di Lạo dầu sao thì cũng không phải là giặc nước, như quan quân nhà Lương. Điều đơn giản là họ chỉ muốn sống cuộc sống theo cách quen thuộc của họ, không muốn có người ngoại tộc chen vào. Vì vậy, sau khi khi Lý Thái Úy mất, họ không tìm cách trả thù, tức là họ vẫn để nguyên thi thể của Ngài ở đây mà không vứt bỏ hoặc hủy hoại.

Chính vì vậy, khi nhận được tin này, người nhà đã từ Cổ Sở, ngược đường lặn lội lên, mang linh cữu của Ngài về quê nhà mai táng. Phần mộ của Ngài được đặt ở cạnh bến Ngọc Tần, đó cũng là tên con sông nhỏ đã chảy qua vùng này.

Gần 500 năm sau, khi Lý Thái Tổ từ Hoa Lư dời đô ra Thăng Long, đã dùng thuyền đi quan sát các vùng phụ cận. Đến bến Cổ Sở, thấy phong cảnh núi sông đẹp đẽ, nhà vua lên bờ, rồi đi dạo trong vùng. Đến bữa dùng cơm, trước khi ăn, ngài rót một chén rượu rồi tưới xuống đất mà khấn rằng: “Trẫm xem nơi này non nước kỳ tú, phong vật dồi dào. Vậy, nếu có người thiêng liêng ở cõi âm, hãy trở về nhận chén rượu này Trẫm tặng!”

Đêm ấy, nhà vua sai lập hành tại để nghỉ lại trong vùng. Đang trong giấc ngủ, Ngài mộng thấy một người cao lớn, mặt mũi phương phi, ăn mặc trang nghiêm, đến thi lễ trước mặt mà nói rằng:

– Thưa Bệ hạ. Tôi người làng này, họ Lý, tên Phục Man, làm tướng giúp Lý Nam Đế. Khi đương thời được vua giao giữ hai đất Đỗ Động và Đường Lâm, được mọi nhà tin yêu. Khi tôi chết được đức Thượng đế khen thưởng cho giữ chức vụ như cũ. Từ đó đến nay, tôi thường đem lính âm binh đến phù trợ cho các triều đại của ta chống giặc mau chóng thành công. Tuy khi tôi chết, dân làng đã lập miếu thờ, vì vậy tôi được phảng phất trong khoảng trời mây, lúc có giặc thì hiển ứng chống đánh, nhưng dân làng vẫn sợ bọn giặc vào cướp phá đền. Nay bệ hạ loan giá tới đây, có lòng tưởng nhớ, vậy tôi xin đến bái kiến.

Nói đoạn, Lý Phục Man liền ngâm tiếp bốn câu thơ:

Thiên hạ toàn mông muội

Cô vị ẩn thanh danh

Trung thiên yết nhật nguyệt

Quang diệu thị chân hình.

(Dịch nghĩa:

(Lúc) Thiên hạ toàn mờ tối

Nên phải tạm ẩn tăm, tiếng

(Nay) Giữa trời đã thấy mặt trời, mặt trăng

Ấy là lúc hình hài được sáng tỏ).

Ngâm xong, Lý Phục Man liền biến mất. Lý Thái Tổ tỉnh mộng, hôm sau nói lại câu chuyện và đọc mấy câu thơ cho mấy viên quan đi theo nghe rồi hỏi ý kiến mọi người. Ngự sử đại phu Lương Nhậm Văn nói:

– Muôn tâu Bệ hạ! Hạ thần trộm nghĩ Lý Tướng quân muốn được dựng tượng thờ để dân chúng cũng thấy mặt.

Lý Thái Tổ gật đầu khen phải, rồi xuống chiếu phục lập Phục Man làm phúc thần cai quản một vùng. Lại sai dựng miếu đàng hoàng hơn trước. Trong đền, sai tạc một bức tượng giống như hình dáng nhà vua đã thấy trong mộng.

Đền xây xong, tượng tạc xong, dân chúng trong vùng và các nơi về trảy hội đông như mắc cửi. Từ đấy trở đi, hương khói không lúc nào dứt, và được các đời truyền tụng là một ngôi đền rất mực linh thiêng.

Trong thời Nguyên Phong (1251 – 1257) tức là sau đến gần 250 năm, vào đời Trần Thái Tông, quân Mông Cổ sang xâm lấn. Khi kỵ binh của chúng qua địa phận làng Cổ Sở, ngựa đều phải phục xuống, không thể tiến lên được. Dân làng tin là có thần âm phù, nên cùng nhau cầm vũ khí xông ra đánh, giết, được rất nhiều giặc.

Khi giặc tan, nhà vua xuống chiếu phong thần là “chứng an quốc công” và ban cho làng Cổ Sở là “Chứng an hộ xá”.

Đến năm Trùng hưng thứ nhất (1285) giặc Nguyên Mông lại sang lần thứ hai, đi đến đâu chúng cũng đốt phá tan tành. Ấy mà làng này, sau khi giặc tan vẫn nguyên lành, không một vật gì bị phạm tới. Dường như có bàn tay của thần Lý Phục Man ngăn trở quân giặc vậy. Vua Trần Nhân Tông thấy thế liền tấn phong Ngài lên thêm một bậc là “Chứng An Vương”. Năm thứ tư, gia phong hai chữ “Minh Ứng”. Năm Hưng Long thứ 21, lại gia phong hai chữ “Tả Quốc”.

Bạn vui lòng NHẤN [Xem quà của bạn] để nhận quà miễn phí nhé.

Bài viết liên quan

Bình Khôi Công Chúa

Bình Khôi Công Chúa

Truyền thuyết Bình Khôi Công Chúa. Bình Khôi Thông Tuệ Trinh Thục Công Chúa, Đại Vương. Là tước hiệu mà triều Lê thượng phong cho bà Trưng Nhị, nguyên là phó tướng, phó vương của bà Trưng Trắc (Trưng Vương) trong cuộc khởi nghĩa mang tên Hai Bà. Cũng như chị, bà Trưng Nhị là […]

Bố Cái đại vương Phùng Hưng

Bố Cái đại vương Phùng Hưng

Truyền thuyết Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm (Ba Vì Hà Tây) xưa nay là miền đất đai trù phú, sản vật dồi dào, lại có sông ngòi bao quanh, tạo nên nhiều phong cảnh đẹp. Vào thời nước ta thuộc Đường (603-906) ở thôn này có gia đình […]

Đại thánh Từ Đạo Hạnh

Đại thánh Từ Đạo Hạnh

Truyền thuyết Đại thánh Từ Đạo Hạnh.. Ngài họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, sống vào thời Lý Nhân Tông, tu tại chùa Thiên Phúc trên núi Sài Sơn, thuộc phủ Quốc Oai, Sơn Tây. Là nhà tu hành nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, có nhiều thuật pháp cao siêu, được đương […]

Truyền thuyết Đền Cờn

Truyền thuyết Đền Cờn

Đến đời Trần Nhân Tông, đạo Phật ở nước ta đã bước vào giai đoạn cực thịnh. Chùa chiền mọc lên khắp nơi, từ Kinh đô đến thôn xóm, từ đồng bằng đến trung du và các miền ven biển. Ngay bản thân nhà vua, sau hai lần lãnh đạo kháng chiến chống giặc Nguyên […]

Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên

Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên

Đức Thánh Tản Viên (Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh) trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Tản Viên, Thánh mẫu Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng […]

Truyền thuyết Đức Thánh Gióng

Truyền thuyết Đức Thánh Gióng

Trong tâm thức dân gian của người Việt, Thánh Gióng biểu đạt cho sức mạnh to lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung. Tuy nhiên, trong đời sống mỗi dân tộc, không phải lúc nào cũng có nạn ngoại xâm. Chiến tranh tự vệ chẳng […]

Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu

Đô Thống Thượng Tướng Lê Phụng Hiểu

Lê Phụng Hiểu sống vào khoảng đầu thời Lý. Ngài là người làng Băng Sơn, nay là Hương Sơn, Dương Sơn, Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Vì nhà ở gần núi Bơng, một hòn núi nhỏ ở giữa cánh đồng, nên dân chúng trong vùng thường gọi Lê Phụng Hiểu thời trẻ là anh Bơng, rồi […]

Mẫu Thoải

Mẫu Thoải

Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải. Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải. Mẫu Thoải […]

Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng

Hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em ruột, con gái vị Lạc tướng ở huyện Mê Linh (nay là vùng Sơn Tây cũ và tỉnh Vĩnh Phú), thuộc dòng dõi Hùng Vương. Hai Bà là những phụ nữ tài cao đức trọng và có đảm lược hơn người. Năm 19 tuổi, bà […]

Mai Hắc Đế: Mai Thúc Loan

Mai Hắc Đế: Mai Thúc Loan

Nước ta, trong thời kỳ thuộc Tùy, Đường (603 – 906) sau cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến năm 687, là đến cuộc của Mai Thúc Loan nổ ra năm 722. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn, quân số lên tới hơn ba chục vạn người. Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan […]

Khâu Ni công chúa

Khâu Ni công chúa

Nàng A là người họ Quách, quê ở vùng ngã ba Bạch Hạc bây giờ. Năm 16 tuổi, bố mẹ nàng đều qua đời do phải vất vả cực nhọc vì sưu cao thuế nặng của người Hán. Làng xóm, đồng ruộng thuở ấy đều tan tác, tiêu điều,… Nàng A bỏ nhà đi tu, […]

Lệ Hải Bà Vương: Triệu Thị Trinh

Lệ Hải Bà Vương: Triệu Thị Trinh

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, sau hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị (năm 40) đến bà Triệu Thị Trinh (năm 248) lại thêm một lần nữa cho thấy phẩm chất tài năng của những người con xuất sắc đã làm vẻ vang cho nòi giống. Đây chỉ mới nói […]

Lý Ông Trọng

Lý Ông Trọng

Lý Ông Trọng là người Việt đầu tiên hiển đạt tại nước ngoài (Trung Hoa), được vua nước ấy nể trọng. Ông người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội ngày nay. Lúc nhỏ có tên là Lý Thân. Tương truyền lúc còn sơ sinh ông đã rất to lớn, hơn hẳn […]

Mẫu Thượng Ngàn

Mẫu Thượng Ngàn

Trong việc thờ cúng tại các làng quê ở miền Bắc và miền Trung nước ta, có một hiện tượng phổ biến là bên cạnh đình, chùa, bao giờ cũng có một nơi thờ Thánh Mẫu, gọi là Điện Mẫu. Điện Mẫu thường nằm ở mé cạnh chùa, nhà gạch xây thẳng ba gian, nhỏ […]

Sự tích xây thành Cổ Loa và lai lịch nỏ thần

Sự tích xây thành Cổ Loa và lai lịch nỏ thần

Thục Phán, sau khi thôn tính nước Văn Lang của Hùng Vương thứ 18, đổi quốc hiệu Âu Lạc. Là vị vua hết sức chăm lo đến việc triều chính, nên sau khi mở mang bờ cõi, An Dương Vương đã nghỉ ngay đến việc củng cố và phòng thủ quốc gia, mà trước hết […]

Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy (Ngọc trai Giếng nước)

Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy (Ngọc trai Giếng nước)

Hồi ấy ở phương Bắc đang là cuối thời nhà Tần. Sau khi Tần Thủy Hoàng mất, Tần Nhị Đế lên thay, tình hình trong nước rối ren. Một viên tướng tài ba mưu lược đang trấn giữ phần đất phía Nam, tên gọi Triệu Đà, nhân cơ hội xưng Đế và lập ra nước […]

Tết hàn thực

31 tháng 3 năm 2025

Xem thêm
Lễ phật đản

12 tháng 5 năm 2025

Xem thêm
Ngày của mẹ

14 tháng 5 năm 2025

Xem thêm
Tết đoan ngọ

31 tháng 5 năm 2025

Xem thêm
Ngày của cha

17 tháng 6 năm 2025

Xem thêm
Lễ vu lan

6 tháng 9 năm 2025

Xem thêm
Tết hạ nguyên

29 tháng 11 năm 2025

Xem thêm
Lễ tất niên

17 tháng 2 năm 2026

Xem thêm